Sự phát triển không ngừng của ngành van (1967-1978)
01 Sự phát triển của ngành bị ảnh hưởng
Từ năm 1967 đến năm 1978, do môi trường xã hội có nhiều thay đổi lớn nên sự phát triển của ngành van cũng bị ảnh hưởng rất lớn. Các biểu hiện chính là:
1. Van sản lượng giảm mạnh và chất lượng giảm đáng kể
2. Van hệ thống nghiên cứu khoa học bắt đầu hình thành đã bị ảnh hưởng
3. Sản phẩm van trung áp lại trở nên ngắn hạn
4. Việc sản xuất van cao áp và trung áp ngoài kế hoạch bắt đầu xuất hiện
02 Thực hiện các biện pháp kéo dài “đường ngắn van”
Chất lượng sản phẩm tạicái vanNgành công nghiệp đã sa sút nghiêm trọng, và sau khi hình thành các sản phẩm van áp suất cao và trung bình ngắn hạn, nhà nước rất coi trọng việc này. Tổng cục hạng nặng và Bộ máy móc thứ nhất đã thành lập một nhóm van chịu trách nhiệm chuyển đổi kỹ thuật của ngành van. Sau khi điều tra và nghiên cứu chuyên sâu, nhóm van đã đưa ra “Báo cáo về ý kiến về việc phát triển các biện pháp sản xuất van áp suất cao và trung bình” gửi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Sau khi nghiên cứu, người ta đã quyết định đầu tư 52 triệu nhân dân tệ vào ngành van để thực hiện chuyển đổi kỹ thuật nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt nghiêm trọng áp suất cao và trung bìnhvan và chất lượng suy giảm càng sớm càng tốt.
1. Hai cuộc họp Khai Phong
Vào tháng 5 năm 1972, Cục Máy móc số 1 đã tổ chức hội nghị quốc giavanHội nghị chuyên đề về công nghiệp tại thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam. Tổng cộng có 125 đơn vị và 198 đại diện từ 88 nhà máy van, 8 viện nghiên cứu và thiết kế khoa học có liên quan, 13 văn phòng máy móc cấp tỉnh và thành phố và một số người dùng đã tham dự cuộc họp. Cuộc họp đã quyết định khôi phục hai tổ chức của ngành và mạng lưới tình báo, đồng thời bầu Nhà máy Van cao áp Khai Phong và Nhà máy Van Tieling lần lượt là trưởng nhóm áp suất cao và áp suất thấp, và Viện nghiên cứu máy móc tổng hợp Hợp Phì và Nghiên cứu van Thẩm Dương Viện chịu trách nhiệm về công việc của mạng lưới tình báo. Cuộc họp cũng thảo luận và nghiên cứu các vấn đề liên quan đến “ba hiện đại hóa”, nâng cao chất lượng sản phẩm, nghiên cứu kỹ thuật, phân chia sản phẩm và phát triển các hoạt động công nghiệp, trí tuệ. Kể từ đó, các hoạt động công nghiệp và tình báo vốn bị gián đoạn trong sáu năm đã được nối lại. Những biện pháp này đã đóng một vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất van và đảo ngược tình hình ngắn hạn.
2. Tiếp tục các hoạt động tổ chức ngành và trao đổi thông tin
Sau Hội nghị Khai Phong năm 1972, các tập đoàn công nghiệp lại tiếp tục hoạt động. Khi đó chỉ có 72 nhà máy tham gia tổ chức ngành, còn nhiều nhà máy sản xuất van chưa tham gia tổ chức ngành. Để tổ chức càng nhiều nhà máy sản xuất van càng tốt, mỗi khu vực sẽ tổ chức các hoạt động công nghiệp tương ứng. Nhà máy van áp suất cao và trung bình Thẩm Dương, Nhà máy van Bắc Kinh, Nhà máy van Thượng Hải, Nhà máy van Vũ Hán,Nhà máy Van Thiên Tân, Nhà máy Van áp suất cao và trung bình Cam Túc và Nhà máy van áp suất cao Zigong lần lượt chịu trách nhiệm cho các khu vực Đông Bắc, Bắc Trung Quốc, Đông Trung Quốc, Nam Trung Bộ, Tây Bắc và Tây Nam. Trong thời kỳ này, ngành van và các hoạt động tình báo rất đa dạng và hiệu quả, được các nhà máy trong ngành rất ưa chuộng. Do sự phát triển của các hoạt động công nghiệp, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau và học hỏi lẫn nhau, nó không chỉ thúc đẩy việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn tăng cường sự đoàn kết, hữu nghị giữa các nhà máy khác nhau, để ngành van đã hình thành một tổng thể thống nhất. , đồng lòng tay trong tay Tiến về phía trước, thể hiện khung cảnh sôi động và ngày càng phát triển.
3. Thực hiện “ba hiện đại hóa” sản phẩm van
Theo tinh thần của hai cuộc họp Khai Phong và ý kiến của Cục nặng và Tổng cục thuộc Bộ Máy móc thứ nhất, Viện Nghiên cứu Máy móc Tổng hợp một lần nữa tổ chức công trình van “ba hiện đại hóa” quy mô lớn với sự hỗ trợ tích cực của nhiều tổ chức khác nhau. các nhà máy trong khu công nghiệp. Công tác “ba hiện đại hóa” là công tác kỹ thuật cơ bản quan trọng, là biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi công nghệ của doanh nghiệp và nâng cao trình độ sản phẩm van. Nhóm làm việc “ba hiện đại hóa” van hoạt động theo “bốn tốt” (dễ sử dụng, dễ xây dựng, dễ sửa chữa và kết hợp tốt) và “bốn thống nhất” (kiểu máy, thông số hiệu suất, kết nối và kích thước tổng thể, các bộ phận tiêu chuẩn ) nguyên tắc. Nội dung chính của công việc có ba khía cạnh, một là đơn giản hóa các giống đã sáp nhập; hai là xây dựng, sửa đổi một loạt tiêu chuẩn kỹ thuật; thứ ba là lựa chọn và hoàn thiện sản phẩm.
4. Nghiên cứu kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nghiên cứu khoa học
(1) Phát triển các nhóm nghiên cứu khoa học và xây dựng cơ sở thử nghiệm Vào cuối năm 1969, Viện Nghiên cứu Máy móc Tổng hợp được chuyển từ Bắc Kinh đến Hợp Phì, thiết bị thử nghiệm khả năng chống dòng chảy ban đầu bị phá bỏ, điều này ảnh hưởng lớn đến nghiên cứu khoa học. Năm 1971, các nhà nghiên cứu khoa học lần lượt quay trở lại nhóm, phòng thí nghiệm nghiên cứu van tăng lên hơn 30 người, được Bộ giao nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu kỹ thuật. Một phòng thí nghiệm đơn giản đã được xây dựng, một thiết bị kiểm tra khả năng chống dòng chảy được lắp đặt, áp suất cụ thể, máy đóng gói và các máy thử nghiệm khác được thiết kế và sản xuất, đồng thời bắt đầu nghiên cứu kỹ thuật về bề mặt bịt kín van và việc đóng gói.
(2) Những thành tựu chính Hội nghị Khai Phong tổ chức năm 1973 đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu kỹ thuật cho ngành van từ năm 1973 đến năm 1975 và đề xuất 39 dự án nghiên cứu trọng điểm. Trong số đó, có 8 hạng mục xử lý nhiệt, 16 hạng mục bề mặt bịt kín, 6 hạng mục bao bì, 1 hạng mục thiết bị điện và 6 hạng mục kiểm tra và kiểm tra hiệu suất. Sau đó, tại Viện nghiên cứu hàn Cáp Nhĩ Tân, Viện nghiên cứu bảo vệ vật liệu Vũ Hán và Viện nghiên cứu máy móc tổng hợp Hợp Phì, các nhân viên đặc biệt đã được chỉ định để tổ chức và điều phối các cuộc kiểm tra thường xuyên, đồng thời tổ chức hai hội nghị công tác về các bộ phận cơ bản của van áp suất cao và trung bình để tổng hợp kinh nghiệm, hỗ trợ và trao đổi lẫn nhau và xây dựng kế hoạch nghiên cứu các bộ phận cơ bản năm 1976 vào năm 1980. Nhờ sự nỗ lực nhất trí của toàn ngành, công tác nghiên cứu kỹ thuật đã đạt được những thành tựu to lớn, thúc đẩy sự phát triển của nghiên cứu khoa học về van ngành công nghiệp. Kết quả chính của nó là như sau:
1) Dán trên bề mặt bịt kín. Nghiên cứu bề mặt bịt kín nhằm giải quyết vấn đề rò rỉ bên trong củacái van. Vào thời điểm đó, vật liệu bề mặt bịt kín chủ yếu là 20Cr13 và 12Cr18Ni9, có độ cứng thấp, khả năng chống mài mòn kém, các vấn đề rò rỉ bên trong nghiêm trọng trong các sản phẩm van và tuổi thọ ngắn. Viện nghiên cứu van Thẩm Dương, Viện nghiên cứu hàn Cáp Nhĩ Tân và Nhà máy nồi hơi Cáp Nhĩ Tân đã thành lập một nhóm nghiên cứu kết hợp ba. Sau 2 năm làm việc chăm chỉ, một loại vật liệu bề mặt bịt kín mangan crôm-mangan mới (20Cr12Mo8) đã được phát triển. Vật liệu có hiệu suất quá trình tốt. Khả năng chống trầy xước tốt, tuổi thọ cao, không có niken và ít crom, nguồn lực có thể dựa vào trong nước, sau khi thẩm định kỹ thuật sẽ rất có giá trị để quảng bá.
2) Nghiên cứu điền. Mục đích của việc nghiên cứu đóng gói là giải quyết vấn đề rò rỉ van. Vào thời điểm đó, việc đóng gói van chủ yếu là amiăng tẩm dầu và amiăng cao su, hiệu suất bịt kín kém, gây rò rỉ van nghiêm trọng. Năm 1967, Viện Nghiên cứu Máy móc Tổng hợp đã tổ chức một nhóm điều tra rò rỉ bên ngoài để điều tra một số nhà máy hóa chất, nhà máy lọc dầu và nhà máy điện, sau đó tích cực thực hiện nghiên cứu thử nghiệm chống ăn mòn trên bao bì và thân van.
3) Thử nghiệm hiệu suất sản phẩm và nghiên cứu lý thuyết cơ bản. Khi thực hiện nghiên cứu kỹ thuật,ngành công nghiệp vancũng mạnh mẽ thực hiện thử nghiệm hiệu suất sản phẩm và nghiên cứu lý thuyết cơ bản và đạt được nhiều kết quả.
5. Thực hiện chuyển đổi công nghệ của doanh nghiệp
Sau Hội nghị Khai Phong năm 1973, toàn ngành đã tiến hành chuyển đổi công nghệ. Các vấn đề chính tồn tại trong ngành công nghiệp van vào thời điểm đó: Thứ nhất, quy trình còn lạc hậu, việc đúc hoàn toàn được làm bằng tay, đúc một mảnh, và các máy công cụ đa năng và đồ gá đa năng thường được sử dụng để gia công nguội. Đó là do chủng loại và quy cách của từng nhà máy trùng lặp quá mức, số lượng lớn trên toàn quốc nhưng sau khi phân phối ở mỗi nhà máy, lô sản xuất rất ít, ảnh hưởng đến việc phát huy năng lực sản xuất. Để giải quyết những vấn đề trên, Cục nặng và Tổng cục thuộc Bộ Máy móc thứ nhất đưa ra các biện pháp sau: tổ chức các nhà máy sản xuất van cao áp và trung áp hiện có, quy hoạch thống nhất, phân công lao động hợp lý, mở rộng sản xuất hàng loạt; áp dụng công nghệ tiên tiến, thiết lập dây chuyền sản xuất và hợp tác trong các nhà máy và cơ sở sản xuất trọng điểm. 4 dây chuyền sản xuất phôi thép đúc đã được thành lập tại xưởng đúc thép và 10 dây chuyền sản xuất linh kiện gia công nguội tại 6 nhà máy trọng điểm; tổng cộng 52 triệu nhân dân tệ đã được đầu tư vào chuyển đổi công nghệ.
(1) Chuyển đổi công nghệ xử lý nhiệt Trong quá trình chuyển đổi công nghệ xử lý nhiệt, các công nghệ như khuôn vỏ thủy tinh thủy tinh, cát tầng sôi, khuôn thủy triều và đúc chính xác đã được phổ biến. Đúc chính xác có thể thực hiện gia công không có phoi hoặc thậm chí không có phoi. Nó phù hợp cho cổng, tuyến đóng gói, thân van và nắp ca-pô của các van có đường kính nhỏ, mang lại lợi ích kinh tế rõ ràng. Năm 1969, Nhà máy Van Lianggong Thượng Hải lần đầu tiên áp dụng quy trình đúc chính xác vào sản xuất van, cho thân van cổng PN16, DN50,
(2) Chuyển đổi công nghệ gia công nguội Trong quá trình chuyển đổi công nghệ gia công nguội, các máy công cụ và dây chuyền sản xuất đặc biệt được sử dụng trong ngành van. Ngay từ năm 1964, Nhà máy Van số 7 Thượng Hải đã thiết kế và sản xuất dây chuyền sản xuất bán tự động loại thân van bánh xích, đây là dây chuyền sản xuất bán tự động van áp suất thấp đầu tiên trong ngành van. Sau đó, Nhà máy Van số 5 Thượng Hải đã thiết kế và sản xuất dây chuyền sản xuất bán tự động thân và nắp van cầu áp suất thấp DN50 ~ DN100 vào năm 1966.
6. Tích cực phát triển giống mới, nâng cao trình độ bộ giống hoàn chỉnh
Để đáp ứng nhu cầu của các bộ thiết bị hoàn chỉnh quy mô lớn như dầu khí, công nghiệp hóa chất, điện, luyện kim và hóa dầu, ngành van đang phát triển mạnh mẽ các sản phẩm mới đồng thời chuyển đổi công nghệ, đã cải thiện khả năng kết nối mức độ của sản phẩm van.
03 Tóm tắt
Nhìn lại những năm 1967-1978, sự phát triển củavan ngành công nghiệp đã từng bị ảnh hưởng rất lớn. Do sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp dầu khí, hóa chất, điện, luyện kim và than, van áp suất cao và trung bình đã tạm thời trở thành “sản phẩm ngắn hạn”. Năm 1972, tổ chức ngành van bắt đầu hoạt động trở lại và thực hiện các hoạt động. Sau hai hội nghị Khai Phong, công tác nghiên cứu kỹ thuật và hiện đại hóa mạnh mẽ đã thực hiện “ba hiện đại hóa”, tạo ra làn sóng chuyển đổi công nghệ trong toàn ngành. Năm 1975, ngành công nghiệp van bắt đầu cải tổ và hoạt động sản xuất của ngành có bước chuyển biến tốt hơn.
Năm 1973, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã phê duyệt các biện pháp cơ sở hạ tầng để tăng cường sản xuất áp suất cao và trung bìnhvan. Sau khi đầu tư, ngành van đã tiến hành chuyển đổi tiềm năng. Thông qua chuyển đổi và thúc đẩy công nghệ, một số công nghệ tiên tiến đã được áp dụng, nhờ đó mức độ xử lý lạnh trong toàn ngành đã được cải thiện ở một mức độ nhất định và mức độ cơ giới hóa xử lý nhiệt cũng được cải thiện ở một mức độ nhất định. Sau khi thúc đẩy quá trình hàn phun plasma, chất lượng sản phẩm của van áp suất cao và trung bình đã được cải thiện rất nhiều, vấn đề “một rò rỉ ngắn và hai rò rỉ” cũng được cải thiện. Với việc hoàn thành và vận hành 32 dự án đo lường cơ sở hạ tầng, ngành van của Trung Quốc có nền tảng vững chắc hơn và tiềm năng sản xuất lớn hơn. Kể từ năm 1970, sản lượng van cao áp và trung áp không ngừng tăng trưởng. Từ năm 1972 đến năm 1975, sản lượng tăng từ 21.284 tấn lên 38.500 tấn, với mức tăng ròng là 17.216 tấn trong 4 năm, tương đương với sản lượng hàng năm vào năm 1970. Sản lượng hàng năm của van hạ áp ổn định ở mức 70.000 tới 80.000 tấn. Trong thời gian này,cái van ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ các sản phẩm mới, không chỉ các loại van đa năng đã được phát triển vượt bậc mà cả các loại van đặc biệt cho các nhà máy điện, đường ống, áp suất cực cao, nhiệt độ thấp và công nghiệp hạt nhân, hàng không vũ trụ và các loại van chuyên dụng khác cũng có phát triển rất nhiều. Nếu những năm 1960 là thời kỳ phát triển vượt bậc của các loại van đa năng thì những năm 1970 là thời kỳ phát triển vượt bậc của các loại van chuyên dụng. Năng lực hỗ trợ của trong nướcvan đã được cải thiện rất nhiều, về cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển của các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân.
Thời gian đăng: 04-08-2022